Lại một mùa hè nữa đến với bao nhiêu niềm vui, háo hức. Nếu
bạn có dự định đi nghỉ mát cùng người thân, gia đình thì Quảng Bình sẽ là một lựa
chọn tuyệt vời với vẻ đẹp còn nguyên sơ hòa quyện cùng biển xanh cát trắng nắng
vàng. Để khám phá Quảng Bình này thì bạn có thể đặt tour
du lịch Quảng Bình 1 ngày, tour
du lịch Quảng Bình 2 ngày 1 đêm, tourdu
lịch Quảng Bình 3 ngày 2 đêm, tour
du lịch Quảng Bình 4 ngày 3 đêm, tour
dulịch Quảng Bình 5 ngày 4 đêm của Tour Du Lịch Quảng Bình Giá Rẻ
- Du Lịch Kỳ Việt. Nếu bạn không thích sự gò bó của tour thì có thể tham khảo
kinh nghiệm du lịch Quảng Bình nhé. Trong bài viết này, Tour Du Lịch Quảng Bình
Giá Rẻ xin giới thiệu tới các bạn “ ghé thăm lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh ”
Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh ở Quảng Bình
Lăng mộ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh nằm trên một ngọn đồi rộng của đãy
núi An Mã, thuộc xã Trường Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ; cách trung tâm huyện Lệ Thuỷ
25km về phía Nam.
Vị khai quốc công thần, Thượng đẳng thần, Chưởng cơ Lễ
Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh sinh năm Canh Dần (1650) tại Xã Chương Tín, huyện
Phong Lộc nay là xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông là một
kiệt tướng đời chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (Hiến Tông Hiếu Minh Hoàng đế
1691-1725). Nguyễn Hữu Cảnh là hậu duệ 19 đời của Khởi tổ Nguyễn Bặc; hậu duệ 9
đời của Hậu tổ Nguyễn Trãi; cháu bàng hệ 7 đời của tổ Nguyễn Như Trác; cháu
bàng hệ 5 đời của Nguyễn Kim; cháu nội của Triều Văn Hầu Nguyễn Triều Văn; con
trai thứ 3 của chiêu vũ hầu Nguyễn Hữu Dật; em ruột của Hào lương hầu Nguyễn Hữu
Hào.
Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh lớn lên trong một gia đình cả
ba cha con đều là những vị tướng có công lao to lớn trong việc phò tá các chúa
Nguyễn giữ vững và phát triển phía Đàng Trong.
Xuất thân trong một gia đình võ tướng, am tường quốc sự, lại
được chứng kiến bao cảnh truân chuyên của xã hội đương thời, Ông đã sớm dấn
thân vào cuộc chiến. Nguyễn Hữu Cảnh đã phụng mạng cầm quân “thống binh” xông
pha trận mạc ở tuổi đời chưa quá 22 (1650-1972) để phò chúa an dân giữ yên bờ
cõi.
Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh ở Quảng Bình
Được chúa Nguyễn – Nguyễn Phúc Chu tin cẩn, Nguyễn Hữu Cảnh
với tài thao lược, trí thông minh và bản lĩnh hơn người, đã lập nhiều chiến
công hiển hách.
Vào những năm 1690-1691, lúc này người nối ngôi vua Chăm Pa
là Kế Bà Tranh, ông ta cố ý muốn giành giật, bỏ bang giao đem quân qua sát biên
giới sát hại cư dân Phủ Diên Ninh (Diên Khánh) mỗi khi xuân về.
Đần năm 1692, chúa Nguyễn phái Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh
làm thống binh cùng với tham mưu Nguyễn Đình Quang đem quân đi bình định biên
cương. Xuân Quý Dậu (1693) bở cỏi được dẹp yên, sáp nhập toàn bộ các phần đất của
Chiêm Thành vào Đàng Trong, vùng đất mới đã bình yên. Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh
y lệnh chúa lập ra Thuận Thành trấn, tháng 8 năm ấy đổi làm phủ Bình Thuận.
Tháng 7-1693 ông trở về Phú Xuân. Tại đây, chính ông đã xin
chúa Nguyễn Phúc Chu tổ chức chiêu mộ dân nghèo khắp xứ Thuận – Quảng để đưa
vào Nam cùng với một số nhân vật nỗi tiếng khác như: Nguyễn Tri Thắng, Nguyễn Tấn
Lễ, Chu Kiêm Lễ…
Tháng 2 năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ Thành
hầu Nguyễn Hữu Cảnh làm kinh lược sứ với sứ mạng là thống suất Kinh Lược. Đầu
tiên ông quyết định cho đoàn chiến thuyền cặp bờ và đóng bản doanh tại Cù Lao
Phố (Đồng Nai) để quan sát và định vùng an dân.
Tướng Nguyễn Hữu Cảnh
Tại Cù Lao Phố, Nguyễn Hữu Cảnh đã đưa ra một kế hoạch toàn
diện: Vừa khai hoang mở đất, vừa dàn xếp biên cương. Song song với việc khẩn
hoang, thống suất Nguyễn Hữu Cảnh thi hành ngay việc chia đất định vùng, đưa dần
dân chúng vào nếp an cư lạc nghiệp.
Về hành chính (theo sách Gia Định thành thông chí của Trịnh
Hoài Đức) ông chia đất Đông Phố: Lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng
dinh trấn biên (Biên Hoà); Lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên
Trấn (Sài Gòn bây giờ). Mỗi trấn có lưu thủ đứng đầu quản trị, dưới có cai bạc
coi về ngân khố, ký lục coi về hành án. Đồng thời ông cũng lập thêm một đơn vị
hành chính tại Sa Hà (sau đó nơi đây là Hạnh Thông Tây Gò Vấp). Tất cả đều trực
thuộc phủ Gia Đinh.
Lúc này địa bàn Đồng Nai – Gia Định được nới rộng thêm hàng
ngàn dặm vuông, dân số tăng thêm 4 vạn hộ. Nhà cửa bắt đầu mọc lên sầm uất. Tại
Phước Long, thống suất còn lo khuếch trương bộ mặt cảng Đại Phố cho khách phường
ngoại bang đi lại dễ dàng, thuyền bè vào ra tấp nập.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử nói trên, Nguyễn Hữu Cảnh thuộc
lớp người đầu tiên khai cơ, người đầu tiên bố trí hệ thống Nhà nước trên miền đất
mới. Học giả Trần Bạch Đằng viết “ý nghĩa quan trọng nhất của việc làm này là ở
chỗ dân lưu tán được thừa nhận là công dân của nước Việt Nam, ruộng đất khai
hoang được vào sổ bộ chính thức, làng mạc được bảo vệ như mọi làng mạc khác của
Việt Nam. Sự xác lập cương việt quốc gia đã tránh ít nhất về mặt pháp lý những
mối đe dọa từ bên kia biên giới. Cho nên dân khai hoang coi ông như người đại
diện của tổ quốc. Ông thoả mãn cả yêu cầu quyền lợi và tình cảm của dân lưu
tán. Có thể nói ý thức quốc gia, ý thức dân tộc của dân lưu tán đã tôn vinh
Nguyễn Hữu Cảnh. Thời gian 3 năm là sự kết đọng một nguyện vọng đã xuất hiện và
nung nấu nhiều trăm năm”.
Được chúa Nguyễn đồng ý, Nguyễn Hữu Cảnh đã tổ chức một cuộc
di dân lớn nhất trong lịch sử, đưa dân từ Bố Chính (Quảng Bình), Quảng Trị, Quảng
Đức, Quảng Nam, Quảng Ngãi (nói chung là vùng Ngũ Quảng) vào khai phá vùng đất
hoang vu để có Nam bộ trù phú ngày nay. Tại vùng đất mới này Nguyễn Hữu Cảnh đã
thực hiện ý đồ quy hoạch của mình: Thiết lập làng xã, xóm ấp; lập sổ đinh điền;
định mức tượng trưng ban đầu về tô thuế. Riêng người Hoa, thống suất Nguyễn Hữu
Cảnh để định cư ở hai nơi:
– Xã Thanh Hà, huyện Phước Long (Biên Hoà, Đồng Nai)
– Xã Minh Hương ở huyện Tân Bình (Sài Gòn, Bến Nghé).
Tất cả số dân nói trên ông đều cho nhập vào sổ bộ của nhà nước
Đại Việt.
Sau hơn 8 năm quan hệ Việt – Miên yên ổn, triều đình Chân Lạp
lại cho quân qua đốt phá nhà cửa của dân chúng ở vùng biên, cướp bóc dân buôn,
cướp phá các dinh của ta. Trước tình hình ấy, mùa thu năm Kỷ Mão (1699) chúa
Nguyễn Phúc Chu lại lệnh cử chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh làm thống suất vào Nam lo
giữ biên cương. Tháng 2 năm Canh Thìn (1700) đại quân của Nguyễn Hữu Cảnh đóng
bản doanh tại Rạch Cá (Ngư Khê) tức Long Hồ thuộc tỉnh Vĩnh Long bây giờ. Tháng
3 (1700) Nguyễn Hữu Cảnh chia quân làm hai đạo tiến về Nam Vang để dàn xếp hòa
hiếu. Tháng 4 (1700) Nguyễn Hữu Cảnh cho dừng chân tại cồn cây Sao tức sao Mộc
Châu mà ngày nay gọi là Cù Lao Ông Chưởng để báo tiệp khải hoàn về Phú Xuân và
đợi lệnh Chúa.
Nhưng một căn bệnh đã ập đến với ông, ngày 9 tháng 5 năm
Canh Thìn thuyền đến Rạch Gầm (Sầm Khê) thì ông qua đời, thọ 51 tuổi. Sau khi
ông qua đời, nhà Nguyễn đã truy phong công trạng của ông với sự đánh giá rất
cao. Ông được coi là ’’Thượng đẳng thần’’, là ’’Khai quốc công thần’’. Ở trên cả
nước ta từ Quảng Bình đến Quảng Nam – Đồng Nai – An Giang – Cần Thơ đến ngay giữa
Sài Gòn… ở đâu cũng có nhà thờ hoặc đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh. Để ghi nhớ công đức
của Ông, ở xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình xưa kia có thiết lập
đền “’Vĩnh Yên” (còn gọi là đền Vĩnh An Hầu) thờ Thượng Đẳng Thần Vĩnh An Hầu,
Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Qua hai cuộc chiến tranh và thiên nhiên khắc nghiệt
đền đã bị huỷ hoại. Với tấm lòng tri ân “uống nước nhớ nguồn” đền Vĩnh Yên đã
được tỉnh cho xây lại và khánh thành vào ngày 18 tháng 5 (âm lịch) năm 2002 và
đã đưa vào phát huy tác dụng.
Hiện nay, trong khuôn viên lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh ở Quảng
Bình còn có một tấm bia đá rất có giả trị. Bia mộ Nguyễn Hữu Cảnh được tạc bằng
đá xanh (cẩm thạch) với kiểu dáng thường gặp ở cuối triều Nguyễn. Bia cao cả
chân 1,2m. Mặt trước của bia hướng về ngôi mộ co khắc 3 dòng chữ Hán được dịch
là:
– Dòng phải: Người mở mang đầu tiên miền Nam bậc khai quốc
thần thượng cấp của triều Nguyễn.
– Dòng giữa: Mộ của Vĩnh an hầu Nguyễn Hữu Kính.
– Dòng trái: Người cháu 4 đời của quý hương là quan cai quản đạo quân hưng
nghĩa Ngũ Đức Hầu Nguyễn Hữu Mạn lập bia mộ vào thời Gia Long sơ niên.
Mặt sau bia dịch là: Ngày 16 tháng 7 năm 1925 Nguyễn Hữu Bài
viện trưởng Viện cơ mật, Đại thần thái tử thái phó, Phúc môn bá Đại học sĩ điện
Võ Hiện đã mang con là Thị Dương tôn kính phụng lập bia mộ này.
Việc tìm ra ngôi mộ đã giải quyết được những tồn nghi trong
lịch sử mà mấy cuộc hội thảo khoa học về thân thế và sự nghiệp của ông trước
đây đặt ra những vấn đề cần phải tìm hiểu, nghiên cứu về ngôi mộ thật của ông ở
Cù Lao Phố, Rạch Gầm, Điện Bàn, Quảng Nam hay ở Thác Ro – Quảng Bình.
Mấy thế kỷ qua đi, dẫu thế sự thịnh suy thăng trầm, song
trong ký ức bất diệt của nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân Quảng Bình nói
riêng, tên tuổi và sự nghiệp của Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vẫn luôn luôn toả
sáng.
“Công Lễ Thành Hầu đi mở đất
Nghìn năm con cháu mãi còn ghi”.
Đó cũng là những kinh nghiệm du lịch Quảng Bình mà du lịch
Kỳ Việt tổng hợp. Nếu bạn có thắc mắc gì thì có thể liên hệ với chúng
tôi:
Điện thoại: (024) 32424670
Hotline: 0972578692




0 nhận xét:
Đăng nhận xét